VỀ THƠ THÚY NGUYỄN
Tôi có một cảm nhận chung
là một số nhà thơ nữ có tố chất thi ca mà những người làm thơ là nam giới và những
người làm thơ nói chung không có được. Chẳng hạn, như hai nhà thơ nữ Nhã Cầm và
Đặng Hà My mà tôi tôi quen biết từ thời sinh hoạt trang mạng Yahoo 360 plus.
Tôi đã viết khá nhiều bài giới thiệu thơ của hai nhà thơ nữ này. Tương tự, trên
trang mạng Facebook, tôi quen biết Thúy Nguyễn qua thơ ca và viết một số bài
phê bình thơ Thúy Nguyễn, tuy nhiên chưa thật đủ và sâu về thơ chị. Bài viết
này hy vọng nói đủ và sâu hơn, đặc biệt là về tính sáng tạo độc đáo của thơ
Thúy Nguyễn. Thiết nghĩ, đó cũng là trách nhiệm của người làm phê bình văn học
mà các tác giả thi ca và đông đảo bạn đọc yêu thơ đòi hỏi.
1. Về ý tưởng - nội dung,
khỏi phải nói về tính phong phú - đa dạng của thơ Thúy Nguyễn, bởi đó là tình
hình khá phổ biến trên diễn đàn thi ca. Sự độc đáo, trước hết là Thúy Nguyễn
phát hiện ý tưởng mới lạ so với người khác. Một ví vụ, đó là trường hợp bài thơ
“Cổng làng” – một bài thơ “đinh” trong tập thơ “Cổng làng” của chị. Đã có đến
nhiều chục bài thơ viết về cái cổng làng. Song, hầu hết đều nói theo cách nhìn
bề nổi của cái cổng này như là “kỷ niệm tuổi ấu thơ”, là “chốn đi về của người
làng”, hoặc miêu tả cổng làng như là một “kỳ quan” làng xã vậy… Khác với hầu hết
những bài thơ viết về cổng làng, “Cổng làng” của Thúy Nguyễn trước hết là kết
quả của tư duy và cảm xúc song trùng ý tưởng (còn gọi là nghĩa đôi – gồm nghĩa
chìm và nghĩa nổi). Đã rõ, dĩ nhiên, đó là cái cổng để mọi người ra vào, nhưng
cái cổng này được ngầm ẩn như là cái “cửa” của người mẹ đưa những đứa con của
mình ra đời: “Phất phơ hoa cỏ rìa nền/Lối đi nho nhỏ vào bên trong làng”. Một
danh nhân nào đó đã nói, đại ý: “Các vĩ nhân đều từ lòng mẹ mà ra!”, thì những
câu thơ cuối bài rthow “Cổng làng” đã nêu ý ấy. Thì ra, lối tư duy và cảm xúc ý
đôi này đã đưa “Cổng làng” lên tầm cao vời vợi trong vai trò của nó. Nhiều người
cảm nhận bài thơ “Cổng làng” còn có dáng dấp thơ phồn ái của Hồ Xuân Hương quả
thật không ngoa. Thật ra , cũng có những thơ song trùng ý tưởng, nhưng rất hiếm
gặp, chỉ riêng Thúy Nguyễn theo đuổi ý tưởng song trùng một cách phổ biến và
thường xuyên. Một dạng của ý tưởng song trùng trong thơ Thúy Nguyễn là lối ví
von – so sánh theo cách của tu từ ẩn dụ - mời xem ở phần sau – phần về hình tượng
thơ Thúy Nguyễn. Tính độc đáo của thơ Thúy Nguyễn còn thể hiện ở chỗ, chị nhìn
nhận trạng thái-sự vật không phiến diện một chiều. Chỉ cần đọc mảng thơ tình của
nữ thi nhân, đủ thấy điều đó. Khi viết thơ tình, ngay từ ông hoàng thơ tình
Xuân Diệu cũng chỉ với cảm xúc nồng nàn, ngây ngất “Yêu đi chứ, vội vàng lên với
chứ/Em ơi em tình non đã già rồi!”, qua các thế hệ thơ tình, rồi đến các nhà
thơ hiện nay cũng chỉ với những lời yêu, những từ ngữ đắm đuối thiết tha, đến mức
ẽo ợt, nhàm chán. Thúy Nguyễn không vậy, thơ tình của chị, ngoài những bài bài
nồng nàn say đắm ( “Hồ thu”, “Lời tự tình”, “Thuyền tình”… còn nhiều bài thể hiện
cảm xúc theo khía cạnh khác: Tình yêu trao cho nhau trí tuệ sáng ngời (“Chân trời
sáng”,“Ánh sáng tình yêu”), tình yêu bất hảo dối lừa (“Chuyện tình thuyền và biển”,
Lời tỏ tình có cánh” ), lời khuyên chân thành đối với tình yêu (“ Đợi đò”;
“Khát khao”)…
2. Về hình tượng hiển thị ý tưởng - nội dung,
thường đó là những con vật như ong - bướm, chim – cá, biển – đảo, dòng sông-
con đò, con gió - ánh trăng… với lối cảm niệm, cảm kể, cảm tả hoặc cảm luận tạo
nên hình tượng đẹp của bài thơ. Đó là: “Chuyện tình đảo xa” với hình tượng biển
và đảo kể về một câu chuyện bạc tình; “Em mãi là con sóng” với hình tượng sóng
và đảo cảm niệm về mối tình trắc trở không bén được duyên nhau; “Cầu ải” với
hình tượng chiếc cầu mục ải cảm luận về ý tưởng hủy bỏ những cái xấu xa không
thương tiếc; “Thuyền tình” với hình tượng con thuyền với hình thức nghệ thuật kết
hợp cảm tả với cảm niệm về tình yêu nâng đỡ cho nhau để đạt tới hạnh phúc lứa
đôi… Tóm lại, đó là nét độc đáo trong hình tượng thơ của Thúy Nguyễn mà ta hiếm
gặp ở các nhà thơ khác. Cũng cần nói thêm rằng, về hình tượng “thuyền” và “biển”,
nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã sử dụng, nhưng là để phục vụ ý tưởng tình yêu gắn bó,
không thể rời nhau, trong khi Thúy Nguyễn nói về tình yêu nâng đỡ nhau, làm đẹp
cho nhau. Đó cũng là cách độc đáo của thơ Thúy Nguyễn.
3. Về ngôn từ có dạng chân mộc, có dạng hàm ẩn
– mỗi dạng phù hợp với thi cảnh đều là hay cả! Trong bài thơ “Dọn về làng”, nhà
thơ người Tày Nông Quốc Chấn viết “Người đông như kiến, súng nhiều như củi” –
nghe ra có vẻ không thơ lắm, nhưng lại rất thơ, thậm chí thơ rất hay là đằng
khác: Kiến và củi là hai thứ rất gần gũi với người dân tộc thiểu số, mà được ví
với người và súng, thì quả là quá hay trong thi cảnh này. Trong bài “Cầu ải” -
để ví cầu ải như người hư hỏng không, sau đoạn thơ nói về tình trang mục ải của
chiếc cầu
“Mảnh gỗ cầu kia bị mục rồi
Thôi đừng nuối tiếc nữa
người ơi
Chớ dùng gỗ ấy làm cầu nối
Sợ đến một ngày gẫy thành
đôi”
Nhà thơ nữ của chúng ta hạ
câu: “Hãy loại bỏ đi … thế là xong!”. Đừng vội kết luận đó là câu thơ thô ráp!
Mà đó, chính là câu thơ thể hiện ngôn ngữ dân gian: Bỏ đi cho xong!”, “vứt đi
cho rồi!”. Rất hay với cái “thô ráp” ấy chứ! Nếu viết bay bướm hơn, chẳng hạn,
“Giã từ thôi nhé, cầu ơi!”, thì mất hết điều cần có trong thi cảnh này! Đó cũng
là cách độc đáo trong ngôn từ thi ca Thúy Nguyễn! Với tinh thần đó, cố tìm
trong thơ Thúy Nguyễn, tôi không thấy có trường hợp nào gọi là ngôn từ “chưa chọn
lọc”. Trái lại, ngôn từ thi ca Thúy Nguyễn rất “đắt” và “độc”. Chữ “nợ” trong
bài thơ “Nợ nhau” mới đắt giá làm sao! Nữ thi nhân nói đến nhiều loại nợ, để rồi
đến “Trời sinh ra luật nợ nhau/Nợ tình càng nặng càng sâu mới bền”. Ngôn từ
dùng cho các bài thơ phồn ái cũng rất gợi… tình, như “Cầu tre giương cứng”
trong “Câu cá đêm trăng”; “Một lần ngây ngất đam mê suốt đời” trong “Hút điếu cầy”.
Các bài “Vịnh củ khoai, “Vịnh quả mít”… đều được sử dụng ngôn ngữ thi ca rất gợi
tình như vậy! Rất đáng chú ý là nữ thi sĩ Thúy Nguyễn trong sáng tạo từ mới thật
sáng giá, như các từ: “không gian” trong bài thơ “Không gian tôi” không đơn thuần
là nơi làm việc của nữ thi nhân mà là không gian rộng lớn, ở đó, con người sống
và hoạt động trong không khí cộng đồng đậm nồng văn hóa; “mảnh thơ” trong bài
“Thơ nhặt” gợi ý tưởng về sự gẫy vỡ mà nữ thi nhân là người lượm lại để hàn gắn;
“tri tình” trong bài thơ “Một chút” – ta mới chỉ nghe “tri âm”, “tri kỷ”, nay
Thúy Nguyễn thêm nữa tri tình; “huyễn ma” trong “Phép thuật tình yêu” lần đầu
tiên được nữ sĩ dùng bao chứa ý tưởng huyễn hoặc và ma quỷ… Rất đáng chú ý là từ
“chuông hót” trong bài thơ “Tiếng thơ – tiếng lòng”. Đã có chuông ngân, chuông
reo, chuông vọng, chuông rền…, nhưng chuông hót là của Thúy Nguyễn. Nhiều người
không có khả năng cảm nhận thi ca nói chung và không am hiểu về ngôn ngữ thi ca
nói riêng, đã vội lên tiếng chê bai thi từ này. Song, thực ra đó là một từ sáng
tạo vô cùng sáng giá – một thi từ ẩn dụ sinh vật hóa tiếng chuông với âm thanh
trong trẻo cảa con chim vậy đó! Vậy là, thẩm thụ thơ không hề dễ dàng chút nào.
Ai không có khả năng thẩm thụ nghệ thuật thơ thì không thể hiểu được thơ Thúy
Nguyễn!
4.Về vần điệu, thơ Thúy
Nguyễn phần lớn là thơ lục bát nghiêm chuẩn và mượt mà. Một số câu thơ cách
tân, nhưng cũng với những người ít sành sõi thi ca coi đó là thất niêm - sai luật
đã được tranh luận trên diễn đàn thi ca mạng, cuối cùng chân lý thuộc về nữ thi
nhân. Ngoài thơ lục bát,Thúy Nguyễn còn gieo vần theo thể thơ khổ với dòng có số
chữ khác nhau, kể cả thơ tự do. Những gì viết trên đây có lẽ đã vừa đủ cho những
gì cần bổ sung cho các bài viết của tôi về thơ Thúy Nguyễn. Tôi viết về thơ
Thúy Nguyễn hôm nay cũng như tôi đã viết về thơ Nhã Cầm và Đặng Hà My trước
đây. Tôi cũng đã bảo vệ thơ Nhã Cầm khi người ta phủ nhận tính trang đài và yếu
tố thiền trong thơ chị. Và cũng chính tôi đã bảo vệ xu hướng thơ hiện đại nói
chung, cũng như tinh thần táo bạo và sáng tạo của Đặng Hà My qua bài thơ “Paris
màu rượu chát”. Làm như vậy, không phải tôi thiên kiến bênh vực Thúy Nguyễn,
Nhã Cầm hay Đặng Hà My, mà tôi bảo vệ chân lý nghệ thuật, đồng nghĩa tự bảo về
danh dự và trách nhiêm của một nhà phê bình văn học. Cảm ơn và chúc mừng nữ thi
sĩ Thúy Nguyễn về thành tựu thi ca của chị và mong chị đạt được nhiều thành
công hơn nữa trong sáng tạo thi ca. Chân thành cảm ơn độc giả về sự quan tâm bằng
mọi hình thức đối với thơ ca Thúy Nguyễn!
Nhà phê bình văn học
Thanh Mai
|
|